Rằng,
chim Phượng Hoàng được sinh ra trên ngọn những ngọn cây Ngô đồng và cây
Bao báp cao nhất trên những khu rừng già của đại ngàn. Không ai nhìn
thấy chúng bao giờ. Lớn lên chúng vỗ cánh bay đi bốn phương trời đến
những vùng rừng núi chạm đến cửa Trời để sống.
Một
ngày kia khi đã thấy già, chúng bay về lại khu rừng trên những ngọn cây
đã sinh ra. Phượng Hoàng tha những cành củi khô làm cho mình một cái tổ
và nằm trên đó đến khi chết. Người đời có tìm gặp những cái tổ trên
ngọn cây cao nhất với nắm xương khô, nhưng không bao giờ nhìn thấy chim
Phượng Hoàng.
Thẩm
Thúy Hằng và một số ít nghệ sĩ như cố NSND Phùng Há, Kim Cương, Minh
Cảnh, Bạch Tuyết… đã chọn cho mình con đường về cõi Phật từ bi, tu
thiền, ăn chay trường, làm việc từ thiện xã hội sống nốt quãng đời con
lại. Họ giống như những con chim Phượng Hoàng trong thần thoại giữa đời
thường.
Phật duyên với minh tinh màn bạc Thẩm Thúy Hằng
Có
một ngày cuối thu năm 1999, nhà thơ – họa sĩ Phan Vũ (tác giả bài thơ
Em ơi Hà Nội phố) rủ tôi đến thăm nhà Người đẹp Bình Dương Thẩm Thúy
Hằng mà ông cho rằng hai vợ chồng nhà ấy là bạn rất thân. Ngưỡng mộ lẫn
kính trọng hai con người ấy, tôi vui mừng chở ông đi ngay.
Trên
đường đi ông còn dặn dò: “Hỏi thăm chuyện đạo và đời cho vui. Bà ấy giờ
tu tại gia, không buồn kể chuyện phim ảnh đâu. Đừng chụp ảnh gì cả…”.
Nhà thơ Phan Vũ là một lãng tử thâm niên, một tín đồ của cái đẹp, mê cái
đẹp quên thời gian, nhưng hồ như xưa nay tôi chưa từng nghe ông ca tụng
ai đẹp nhất, trừ người vợ đã mất khi trẻ của ông là một diễn viên điện
ảnh cùng thời với NSND Trà Giang. Nay lại nghe ông ca tụng Thẩm Thúy
Hằng là người phụ nữ đẹp nhất… hành tinh thì rất lạ.
Ông
miên man nói về nhan sắc một thời, mỹ nhân một thời ở miền Bắc và miền
Nam, rồi bình luận về góc cạnh đẹp trong hội họa, phim ảnh, sân khấu và
đời thực. Với ông, tóm lại Thẩm Thúy Hằng là người phụ nữ thành đạt đỉnh
cao nhất trong sự nghiệp và nhan sắc đẹp lộng lẫy không ai sánh nổi.
Nhưng bây giờ, ông trầm giọng: “Gìa rồi, tàn phai và xa lánh mọi người
để giữ vẻ đẹp trong lòng người ngày xưa, tội lắm. Nhà Phật là cánh cửa
mở để phục sinh tâm hồn những người như bà ấy…”.
Sau
nhiều năm trong đời, tôi mới nhìn thấy lại Người đẹp Bình Dương Thẩm
Thúy Hằng và ông Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh tại tư gia căn biệt thự số 608
đường Cách mạng Tháng 8, quận 10, TPHCM, gần chợ Hòa Hưng ngày nay.
Cuộc thăm hỏi của những người bạn lớn với nhau, tôi chỉ ngồi im lặng
nghe như một cậu bé và chiêm nghiệm. Cho đến khi cô Hằng cho biết đến
giờ tụng kinh niệm Phật, tôi với nhà thơ ra về, lòng dạt dào một cảm xúc
khó tả. Buồn và vui lẫn lộn, mơ hồ…Chợt nhớ đến bài thơ Nhan sắc của
Thế Lữ mà khi còn tuổi sinh viên tôi đã thuộc lòng:
“Nhưng em ơi, vẻ xanh tươi trong trời đất
Tuy đến hạn u tàn, song chẳng mất:
Đông qua, lại thấy xuân sang,
Còn vẻ đẹp giai nhân, đắm đuối rỡ ràng,
Gồm những ánh tinh hoa bao cảnh sắc.
Phải đâu cũng lâu bền như non nước ?
Một ngày kia, em ngắm lại dung nhan.
Em sẽ cùng ta buồn trách thời gian,
Tiếc cảnh vui qua, tiếc mầu rực rỡ
Của xuân đời ngàn năm không về nữa”
Nhìn
thấy thần tượng Thẩm Thúy Hằng, bài thơ làm cho tôi chợt nhớ đến nghệ
danh Thẩm Thúy Hằng… chữ Hằng là tên con sông Hằng bên Ấn Độ, là dòng
sông gội rửa mọi tội lỗi cho con người. Dòng sông đưa con người về với
cõi Vĩnh hằng, về với cõi Phật từ bi, về với Thánh ALah đang ngự tại
Phương Đông. Dường như định mệnh đã sắp đặt mối tương nghiệp có phật
duyên từ những ngày ở tuổi 16-17 khi Kim Phụng thi trúng tuyển diễn viên
vai Tam Nương của hãng phim Mỹ Vân cuối năm 1958 cho bộ phim “Người đẹp
Bình Dương”.
Liên
quan đến cửa Phật người đời ai cũng biết đến một nghệ sĩ nổi danh cùng
thời Thẩm Thúy Hằng là nghệ sĩ cải lương Minh Cảnh. Minh Cảnh bắt đầu ca
hát mê vọng cổ từ năm 15-17 tuổi, anh đã thuộc làu tuồng “Huyết lệ
trùng dương” .
Năm 24 tuổi (1961), Minh Cảnh xuất hiện lần đầu tiên trên sân khấu
với bài vọng cổ “Tu là cội phúc” của soạn giả Viễn Châu, và trở thành
một ngôi sao cải lương đến nay chưa từng ai vượt qua giọng ca vàng trời
phú cho Minh Cảnh. Nhưng dường như “kép chánh” Minh Cảnh luôn thủ những
vai diễn sầu ai, bi thương, cơ hàn, giang hồ độc hành… như một định mệnh
cuộc đời dành sẵn cho người nghệ sĩ tài hoa như anh.
Người
miền Nam không có ai là không mê tiếng hát Minh Cảnh, nhưng ít ai để ý
hầu như các vai diễn của anh đều có chút gì đó liên quan đến cõi Phật.
Một Trần Tự Tâm trong “Máu nhuộm sân chùa”, một Âu Thiên Vũ trong “Mùa
thu trên Bạch Mã Sơn”, một Cao Nguyên Bình trong “Đêm lạnh chùa hoang”,
hay Võ Đông Sơ, Kiếm sĩ mù, Đạo đời hai ngã, Lưu Bình - Dương Lễ…và cuối
đời, Minh Cảnh nương nhờ cửa Phật tại TP HCM, rồi anh sang Mỹ trị bệnh
hiểm nghèo cũng tá túc trong một ngôi chùa, ăn chay trường, niệm Phật
hàng đêm.
Với
một người bình thường, việc nương nhờ cửa Phật, xuất gia tu hành thường
rơi vào chuyện tình tan vỡ, buồn đau, bất mãn sự đời. Còn một nghệ sĩ,
một người nổi tiếng như Thẩm Thúy Hằng, Minh Cảnh, Kim Cương, Bạch
Tuyết… việc tu hành là một pháp giải thoát, một nơi gửi thân ẩn náu,
trốn tránh người đời và sự đời tìm vui trong lời kinh tiếng kệ, mõ sớm
chuông chiều, để phôi pha đi những nỗi buồn, hoài tiếc, sân si một thời trẻ trung, nhan sắc huy hoàng.
Thẩm
Thúy Hằng giã từ những hào quang của cuộc đời không chút dễ dàng. Bẵng
một thời gian, khoảng năm 2006 cô bất ngờ trở lại sân khấu với hai kịch
bạn viết về tình yêu, hạnh phúc. Giới nghệ sĩ sân khấu và người ái mộ
mừng húm vì sự trở lại này.
Đó
là nghiệp duyên chưa dứt, ngộ tánh chưa thông. Nhiều năm tu tại gia,
làm tu sĩ, phật tử nhưng nghĩa vụ gia đình, vương vấn tình bằng hữu và
nghiệp đời làm sao Thẩm Thúy Hằng dứt bỏ hồng trần. Khi bán căn nhà ở
quận 10, dời về Bình Qưới –Thanh Đa sinh sống, người lui kẻ đến ít dần,
nhất là khi người chồng TS Nguyễn Xuân Oánh qua đời, Thẩm Thúy Hằng mới
thật sự dứt bỏ nghiệp trần để tu hành, xa lánh cõi tạm trừ những bạn bè
thân hữu xa cũ, ruột rà mới gặp được cô.
"Phật
tức Tâm, Tâm tức Phật", ngoài tâm không có Phật, Phật ở chính ngay
trong tâm của chúng ta. Theo cách diễn đạt của Cư sĩ Chính Trực thì,
Phật không có ở trong chùa, cũng không có ở trên non trên núi cao, không
có ở dưới sông dưới suối, không có ở trong rừng, trong hang, không có ở
cội cây, hòn đá.
Phật
không có ở trong các pho tượng do người đời tạc ra hay tượng đá tự
nhiên hình thành hoặc trong tranh vẽ. Những người tự xưng là Phật sống,
chỉ là đại diện của Phật để dâng sớ cúng sao, giải hạn, cầu an, cầu siêu
trên đời, hoặc thấy cội cây, hòn đá có hình dáng lạ lùng nào đó, liền
cho là Phật hiện, đổ xô đến lạy lục, đều không phải Chánh Pháp, đều là
mê tín dị đoan cả.
Trong
lịch sử Phật giáo có một tình tiết thú vị là Thái tử Tất Đạt Đa sinh
vào ngày rằm tháng Tư (Âm Lịch) năm 624 trước Công nguyên. Là con vua
Tịnh Phạn (Shuddhdara) trị vì vương quốc Ca-tỳ-la-vệ (hiện nay ở phía
Nam nước Nepal, lúc bấy giờ thuộc lãnh thổ Ấn Ðộ).
Sau
sáu năm tu hành khổ hạnh trên núi không thành, khi ra khỏi rừng sâu đến
bên bờ sông Ni-liên-thiền tắm rửa thì tay chân và thân thể không còn
sức, Ngài ngã xuống đất hôn mê, thì may sao có một người nữ chăn dê tên
là Tu-xà-đa thấy thế liền mang sữa dê đến cho Thái tử uống. Uống sữa dê
xong, Thái tử dần dần hồi phục được sức khỏe. Năm vị xuất gia theo hầu
trước kia, thấy Thái tử nhận sữa cúng dường của người nữ chăn dê, cho
rằng Thái tử đã thối thất tâm đạo, liền bỏ Ngài ra đi.
Thái
tử cũng không biện bạch, một mình đi đến gốc cây Tất-bát-la bên bờ sông
(sau khi Đức Phật thành đạo đổi tên là cây Bồ Đề) ngồi kiết già, phát
lời thệ nguyện: “Máu có thể cạn, thịt có thể rữa, xương có thể khô,
nhưng nếu không giác ngộ, ta thề không rời khỏi chỗ ngồi này!” và Ngài
đã ngồi thiền 49 ngày dưới gốc cây Bồ Đề rồi đắc đạo thành Phật (hiệu là
Thích Ca Mâu Ni).
Phải
sau một thời gian tu tập thiền định, trí tuệ bát nhã bừng sáng, Ngài
mới giác ngộ được Chân Lý và thành Phật. Sau đó, Đức Phật chỉ dạy rằng:
"Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh".
Nghĩa
là tất cả mọi chúng sanh ai ai cũng có Phật Tánh, còn gọi là tánh giác
ngộ. Đó là tánh sáng suốt hoàn toàn tuyệt đối. Dù là kẻ ngu hay người
trí cũng đều có Phật Tánh như nhau. Chỉ tại sự mê ngộ chẳng giống nhau,
chẳng đồng đều, cho nên thế gian mới có kẻ ngu, người trí.
Người
ngộ được Phật Tánh sẽ thấy cảnh trần càng đẹp, càng thuần. Phật Tánh
hay tánh giác ngộ chỉ hiện ra khi tâm phiền não không còn, cũng như khi
mây đen tan biến hết thì mặt trăng sáng hiện ra vậy.
Tất
cả mọi chúng sanh ai ai cũng sẽ trở thành một vị Phật, nếu biết tu tâm
dưỡng tánh theo đúng Chánh Pháp. Không cần phải qua tận Tây Trúc, Ấn Độ
để tìm Phật. Cũng không cần phải vào tận chốn rừng sâu, hay trèo non lội
suối, cũng không cần phải làm những chuyện thay đổi hình tướng, không
cần phải làm những chuyện dị hình dị tướng, không cần làm những chuyện
khác thường khác đời gì cả.
Tất
cả mọi chúng sanh ai ai cũng có thể tu trong mọi hoàn cảnh, ngay tại
thế gian này, ngay trên cõi đời này. Chỉ có điều là chúng ta có phát tâm
muốn tu hay không mà thôi. Chúng ta đã biết là tất cả ai ai cũng đều có
những tâm niệm xấu ác cần phải tu, cần phải sửa, cần phải chừa bỏ.
Trong
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Những tâm niệm đó chỉ là vọng
tâm". Nghĩa là những tâm niệm đó "tùy duyên mà có", hết duyên thì lặng
mất, chứ không phải là tâm thực của chúng ta, không phải là "chơn tâm".
Thẩm Thúy Hằng là người đã tùy duyên mà có.
Không phải sắc đẹp bao giờ cũng mang đến thành công
Con
đường sự nghiệp của Thẩm Thúy Hằng không phải là con đường bao giờ cũng
xuôi chèo mát mái như người đời nghĩ. Sự sáng tạo và lao động cật lực
của Thẩm Thúy Hằng là một tấm gương để những người làm nghệ thuật ngưỡng
mộ. Một nghệ sĩ cùng thời với Thẩm Thúy Hằng (xin được giấu tên) đã tâm
sự : “Tôi là một trong hàng vạn tín đồ yêu đơn phương Thẩm Thúy Hằng
như yêu một Nữ hoàng nhan sắc. Nhưng với tôi, tình yêu còn là sự nể phục
đến kính trọng tấm gương tài năng, nhan sắc và lao động nghiêm túc, hết
mình nghệ thuật, vì khán giả”.
Theo
ông, việc Thẩm Thúy Hằng tu hành, ăn chay trường, lánh xa chốn ồn ào là
lẽ thường của một tên tuổi lừng danh như cô. Khi thời nhan sắc không
còn, đã héo úa, phai tàn cô rút vào im lặng, tịnh tâm bỏ mặc người đời
hoài tiếc và nhớ mãi những gì đã có. Đừng xem việc đó là gì cả, rất bình
thường.
Thẩm
Thúy Hằng ngày xưa là nữ hoàng nhan sắc, là người đẹp Bình Dương, con
người đó đã mất rồi, đã thành qúa khứ xa rồi. Còn Thẩm Thúy Hằng ngày
nay, xin gọi cô với Pháp Danh gì đó là Diệu Hiền, Diệu Hạnh, Diệu Thiện…
như thế sẽ công bằng hơn với cô ấy.
Là
phụ nữ bình thường, không có điều kiện thì không nên sa đà vào thẩm mỹ,
dao kéo. Còn một nghệ sĩ nổi tiếng, việc thẩm mỹ là không thể cưỡng
lại. Ai cũng muốn mình trẻ trung, xinh đẹp vĩnh viễn trong lòng người ái
mộ.
Huyền
thoại nhạc Rook Michael Jakson chi cả triệu đô la cho việc làm đẹp
trong một lần lưu diễn, nữ hoàng điện ảnh Liz Taylor tốn nhiều triệu đô
la để giữ mãi nhan sắc nữ hoàng Cléopatra…Thẩm Thúy Hằng có thấm tháp gì
đâu so với những hoàng đế ca nhạc, nữ hoàng điện ảnh thế giới. Chỉ tại
góc nhìn hẹp, không quen của quan niệm về thẩm mỹ, sắc đẹp người Á Đông
và người Việt chúng ta.
Từng
có lúc tại Sài Gòn vào thập niên 1960, người đời đã so sánh Thẩm Thúy
Hằng ngang với những minh tinh Châu Á và thế giới là gì. Kể cũng lạ, từ
một nữ sinh vô danh, Thẩm Thúy Hằng bước lên đài vinh quanh nghệ thuật
với danh hiệu để đời mọi người ái mộ mà không cần bất cứ một kỳ sát hạch, thi thố gì cả. Điều này là xưa nay hiếm vì không hề có tiền lệ bao giờ.
Nghề
và nghiệp diễn đã để lại cho Thẩm Thúy Hằng nhiều kỷ niệm khó quyên. Có
những kỷ niệm vui mà cũng có những kỷ niệm buồn, làm sao người đời biết
được. Việc chăm lo cho 4 người con, chăm lo cho chồng, chăm lo sân khấu
kịch, điện ảnh, ca nhạc…vừa phải viết kịch bản, quản lý đoàn, vào vai
chính, thu chi tài chính, ngoại giao, bạn bè, báo giới chưa kể đến những
biến cố, thăng trầm lịch sử Sài Gòn cũ làm ảnh hưởng rất lớn đến sự
nghiệp của chồng con. Có cả những kỷ niệm suýt chết người vì yêu nghệ
thuật.
Đó
là vào năm 1970, khi quay bộ phim “Xin đừng bỏ em” của Thăng Long điện
ảnh do Lê Mộng Hoàng đạo diễn, Thẩm Thúy Hằng đã bị tai nạn liên quan
đến phần đầu và mặt khi ngọn đèn Sunlight rớt xuống trúng ngay đầu trong
khi “Người Đẹp Bình Dương” đang “say mê” diễn xuất một cảnh tình cảm
rất mùi. Tai nạn đã làm ảnh hưởng đến dây thần kinh thị giác của Hằng
chút nữa làm cho người đẹp của chúng ta trở thành “độc thủ mỹ nhân”.
Thẩm
Thúy hằng còn là nghệ sĩ điện ảnh đầu tiên xuất khẩu đóng phim. Khi tên
tuổi của cô vang dội khắp Á Châu, các hãng phim Đài Loan, Thái Lan lập
tức tìm Thẩm Thúy Hằng mời đóng phim mà đến nay chưa có một nghệ sĩ điện
ảnh Việt Nam nào được may mắn đó. Đóng vai nữ chính với các tài tử thế
giời đang nổi tiếng như trong bộ phim S.T.A.B của Đạo diễn Chalong
Pakdivijit dàn dựng.
Phim
do hãng Colombia Mỹ phát hành, với sự diễn xuất của các ngôi sao "đa
quốc tịch" như Greg Moris, Anoma Palalak, Krung Srivilai… Ngay trong
phần giới thiệu bộ phim, tên của chị được nêu lên trân trọng, xem như là
một sự xuất hiện thật đặc biệt. Phim này khi phát hành tại Thái Lan và
Việt Nam có tên là “Vàng”. Đây là bộ phim có doanh thu cao nhất trong
lịch sử điện ảnh Thái Lan (trước năm 1974).
Lòng thanh thản, hồng trần dễ có mấy ai
Thẩm Thúy Hằng và các bạn đồng nghiệp
Một
ngày trung tuần tháng 4/2003, trước 4 tháng Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh
qua đời, trong căn nhà ở Bình Qưới- Thanh Đa, NSUT Thẩm Thúy Hằng đã
nhấc điện thoại nói chuyện với một đạo sư, cô nhắc lại cuộc hẹn tại tư
gia với sự chờ đợi của Tiến sĩ Oánh.
Khi
đạo sư đến nơi, Tiến sĩ Oánh đã thay trang phục chỉnh tề và lịch sự,
thắt ca-ra-vat nghiêm túc theo tác phong thường ngày của ông. Chỉ duy
nhất một điều khác là sức khỏe không cho phép, buộc ông phải ngồi trên
chiếc xe lăn.
Thẩm
Thúy Hằng ngồi bên cạnh phu quân nói khá nhiều về chuyện hiện thức với
vô thường. Cô rất tin tưởng vào sự tối nhiệm mầu của Phật pháp và sự hóa
thân mầu nhiệm của Quán Thế Âm vi diệu. Sau nhiều năm ngẫm nghiền kinh
Phật và giáo lý, Thẩm Thúy Hằng, người đẹp Bình Dương trở thành một đệ
tử rất uyên bác, thẩm thấu nhiều về đạo pháp.
Nhớ
có lần kỳ nữ Kim Cương thổ lộ: không hẹn mà gặp, tôi với Hằng có những
công việc rất giống nhau. Cùng nghiên cứu về Phật pháp, ngồi thiền và ăn
chay trường, tham gia các cuộc từ thiện - xã hội dưới màu áo Phật tử.
Hôm đám tang NSND Phùng Há, người thầy lớn, má Bảy của ngành cải lương,
cả Thẩm Thúy Hằng và Kim Cương đều trong trang phục Phật tử, túc trực
thường xuyên bên má Bảy.
Trong sách Kinh dạy tu tại gia, khuyên con người luôn sống hiếu đạo
trước tiên là với cha mẹ, anh em, người thân. Không phải lên chùa xuất
gia mới là người tu hành. Khi thầy tu còn mặc chiếc áo nâu sòng là còn
mắc nợ người nông phu tay lắm, chân bùn, khuya sớm vất vả để trồng cây
dâu, nuôi tằm, lấy kén, quay tơ, dệt vải và may thành áo.
Khi
nhà sư còn ăn đậu phụ là còn mắc nợ người đã trồng ra đậu và chế biến
thành món ăn. Như vậy, pháp tu tâm chính là sống chân thật, làm việc
thiện, hiếu thảo. Thì việc lên chùa hay ở nhà tu đều giống như nhau.
Những nghệ sĩ tài danh nổi tiếng một thời như Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương,
Bạch Tuyết, Minh Cảnh…khi sức khỏe đã yếu, thời xuân sắc đã không còn
trên làn môi, đôi má. Mắt đã nhăn nheo, yếu mờ rất cần chuông mõ công
phu để thanh thản, tịnh tâm và quên hết thảy mọi sân si cõi trần.
Thẩm
Thúy Hằng tâm sự với vị đạo sư rằng: anh Oánh chưa hiểu sự nhiệm mầu
của Phật. Là câu nói rất thực lòng. Bởi từ khi khởi nghiệp công danh,
Tiến sĩ Oánh từng là sinh viên giỏi nhất Đại học Harvard Hoa Kỳ.
Ông
không có cơ hội tiếp xúc với giáo lý nhà Phật vì con đường ông chọn đi
là con đường tri thức hiện đại nhất của nhân loại về kinh tế, ngân hàng,
không phải thế giới tâm linh. Trở về đất nước, ông mang hết sở học và
kinh nghiệm ra để phụng sự đất nước.
Cho
dù đó là chế độ Sài Gòn cũ, ông đã lên tới bậc thang cao nhất quyền lực
là Thủ tướng. Trong lĩnh vực tài chính ông là Thống đốc Ngân hàng quốc
gia, cũng là đứng đầu về ngân khố, tiền bạc. Thì làm sao ông còn thời
gian để nghiên cứu sự nhiệm mầu của Phật.
Đất
nước giải phóng, ông cùng nhiều học giả, trí thức ở lại quê hương và đã
được những vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước đón nhận và trọng
dụng ngay từ những ngày đầu giải phóng Sài Gòn.
Đất
nước nghèo nàn, lạc hậu sau chiến tranh, cả nền kinh tế và xã hội đang
vật vã tìm lối đi lên đổi mới và phát triển. Những nhân sĩ, trí thức như
ông là những chiến sĩ tiên phong trên lĩnh vực kinh tế, tài chính. Bất
chấp những lời biếu riêu của bọn phản động đang sống ở hải ngoại.
Ngay
cả minh tinh Thẩm Thúy hằng phu nhân ông, kẻ xấu không từ thủ đoạn nào
dể kích động, lôi kéo và hằn học vì sự chọn lựa ở lại quê hương Việt Nam
của hai ông bà. Chỉ ngay sau ngày giải phóng không lâu, Thẩm Thúy Hằng
đã nhanh chóng hòa nhập trên sâu khấu cách mạng cùng nhiều văn nghệ sĩ
miền Bắc và văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam.
Sân
khấu lại sáng đèn, rạp chiếu bóng lại quảng cáo những bộ phim, vở kịch
có Thẩm Thúy Hằng tham gia. Có những người nghèo, sống giữa đô thành Sài
Gòn phồn hoa chưa một lần đặt chân đến rạp chiếu bóng, sân khấu kịch
trường thì lần này họ chính là chủ nhân của những xuất chiếu phim, những
vở kịch để mãn nhãn ngắm nhìn minh tinh thần tượng bấy lâu nay. Họ là
chủ nhân của một đất nước tự do, độc lập, hòa bình.
Vị
đạo sư hôm ấy đã giúp cho Tiến sĩ Oánh siêu thoát phần con người của xã
hội, như phu nhân ông là Thẩm Thúy Hằng, giúp ông nhẹ nhàng tách ra
khỏi thực tại để nhẹ nhõm, thanh thản trong lòng khi tuổi tác già nua và
bệnh tật đang gặm nhấm ông từng ngày, từng hơi thở.
Pháp
giải thoát rất đơn giản: Rằng bao nhiêu kiến thức cao rộng có giúp gì
cho con người khi tàn hơi, kiệt sức ? Rằng con người đã sống bao nhiêu
năm liệu có bao giờ nhận ra mình là ai chưa? Nhà Phật khuyên con người
khi đã như thế, như Tiến sĩ Oánh những ngày cuối đời hãy tạm gạt bỏ
những gì tồn tại xem nó như một bí ẩn chưa trả lời, thả tâm hồn trôi lạc
về cõi bí ẩn ấy với một đầu óc hoàn toàn ngu dốt, không khái niệm,
không hiểu biết, vô tri, vô thường…
Câu
chuyện thuyết pháp của đạo sư hôm ấy, cuối cùng Tiến sĩ Oánh cũng cười
vui cho biết: Tôi cảm thấy vô cùng thanh thản… Những người có mặt hôm ấy
như Thẩm Thúy Hằng, nghệ sĩ Thanh Trà đã mừng bật khóc. Đạo sư Duy Tuệ
đã đeo vào cổ Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oanh một tượng Phật bằng vàng và ông
còn xin thêm chuỗi tràng hạt đeo vào tay.
Ngày
29 tháng 8 năm 2003, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh đã nhẹ nhàng đi vào cõi
vĩnh hằng với sắc diện rất thanh thản. Sau 83 năm mệt mỏi với bao nhiêu
kiến thức, thăng trầm của một đời trí thức qua 3 chế độ khác nhau, ở
thời điểm lịch sử nào ông cũng là người tận tụy hết mình, lao động và
cống hiến rất trách nhiệm, trong sáng.
Nhờ
tấm lòng và sự am hiểu về thiền, Phật của phu nhân Thẩm Thúy Hằng đã
giúp ông mấy tháng đeo trên cổ hình tượng Phật và ngộ đạo như một Phật
tử hằng bao nhiêu năm nghiên cứu tu hành.
Cõi
thiền, cửa Phật không phải của riêng ai, Thẩm Thúy Hằng chọn cho mình
cõi ấy là duyên số và cũng là định mệnh cuộc đời. Để có sự thanh thản,
yên tĩnh cuộc đời, để vĩnh viễn còn có trong lòng người mộ điệu một minh
tinh màn bạc Thẩm Thúy Hằng, thì dù cho ai đó nói gì, hiểu được gì,
biết được những gì thì Thẩm Thúy Hằng vẫn là một phụ nữ đẹp nhất từ
trước đến nay.
Một
nghệ sĩ tài năng và toàn vẹn cả sắc lẫn tài. Trời sinh ra Thẩm Thúy
Hằng có thể là một mỹ nhân không như lời tiên tri của đại thi hào Nguyễn
Du trên 300 năm trước, rằng: chữ tài, chưa hẳn liền với chữ tai một
vần. Người đẹp Bình Dương Thẩm Thúy Hằng là một ngoại lệ xưa nay chưa
từng có.
(Ngồn ảnh Phunutoday.vn)